Bối cảnh Công đồng Constantinopolis I

Thần học

Công đồng Nicaea I năm 325 đã không kết thúc được cuộc tranh cãi Arian về Chúa Ba Ngôi. Nhiều vị Giám mục sau này quyết định rằng, giáo hội không thể dùng một chữ không có trong phúc âm (homoousios – đồng bản tính) để giải quyết vấn đề, do đó họ quyết định là Arius đúng. Năm 327, Hoàng đế Constantine I bắt đầu hối hận về những quyết định được đưa ra tại công đồng Nicea. Dưới tác động của Eusebius thành Nicomedia, hoàng đế mở công đồng Tyro (335), ân xá cho Arius và chào đón ông quay trở lại[1].

Trái lại Công đồng Sardica (343) kết án Athanasius. Athanasius bị đi đày ở Trèves Hilariô, Eusebius thành Vercellis bị lưu đày ở Đông phương. Thế nhưng cả Athanasius và Eusebius trong những năm bị đày đã tiếp tục rao giảng cho nhiều giới về tầm quan trọng của vấn đề, sự nguy hiểm của lạc thuyết Arian.

Tại Rôma, Giáo hoàng đối lập Fêlix II đoạn quyền Giáo hoàng Libêrô đang ở chốn tù đày. Dưới áp lực, Libêrô đã kết án những ai dùng từ homoousios để truyền bá thuyết Sabellius (một Chúa với ba hình thức). Năm 359, hoàng đế thành công khi đưa ra công thức homoios: "Chúa Giêsu giống Chúa Cha theo như Kinh Thánh dạy".

Năm 361, tân hoàng đế Julianus (361-363) cho các Giám mục công giáo cũng như phái Arian đang bị lưu đày được trở về. Ở Tây phương, Hilarius (367) và Eusebius (370) đã thuyết phục được hàng giáo sĩ GauloisÝ trở về với tín điều của Công đồng Nicea. Trong khi đó, Athanasius cũng đạt được kết quả nơi hàng giáo sĩ Ai CậpPalestina (qua công đồng Alexandria năm 362). Ngoại trừ phe Arian thuần túy, còn hầu hết đều nhìn nhận Công đồng Nicea[2].

Thế nhưng khi hoàng đế Valens (364-378) lên cai trị đế quốc Đông phương, ông lại ủng hộ phe Arian. Ông ra lệnh đưa đi đày nhiều Giám mục. Lần thứ hai Athanasius phải rời khỏi Alexandria trong gần một năm.

Ba giáo phụ xứ Cappadocia là Basilius (379), Gregori Nazianzen (390) và Gregori Nyssen (395) cũng tuyên bố trung thành với công đồng Nicea nhưng tìm ra một lối trình bày mới cho tín điều Chúa Ba Ngôi. Trước đó có hai luồng quan điểm. Một là nhấn mạnh về Bản tính duy nhất (una ousia) tin rằng không có sự khác biệt về Bản tính trong Ba Ngôi. Hai là nhấn mạnh vào sự phân biệt Ngôi vị (treis hypostases).

Các giáo phụ xứ Cappadocia đưa ra quan điểm: Thiên Chúa Ba Ngôi vị (treis hypostases), nhưng Ba Ngôi đồng (cùng một) Bản tính (una ousia). Điều này vừa chống lại chủ trương của phe Arian: "Chúa Con khác Chúa Cha về Bản tính", vừa chống lại lạc thuyết Sabellius: "Chúa Cha và Chúa Con cùng một Ngôi vị".

Lạc giáo về Chúa Thánh Thần. Họ chủ trương Chúa Thánh Thần chỉ là một tạo vật như Chúa Con và còn kém hơn. Từ năm 360, đã có một số Giám mục phe Arian đưa ra chủ trương này. Với sự đỡ đầu của Macedonius Giám mục Constantinopoli, và Marathon Giám mục Nicomedia, thuyết này mở rộng khá mạnh.

Dựa vào câu "Lời đã thành xác phàm" (Logos-sarx egeneto) trong Tin Mừng Gioan 1,14, Apollinaire, Giám mục Laodicea cho rằng Ngôi Lời đảm nhận một bản tính nhân loại không có linh hồn. Đức Kitô là Ngôi Lời thần linh nhập thể. Là một con người thiên thai, Đức Kitô sử dụng thân xác như một dụng cụ. Nhiều Thượng Hội đồng địa phương, nhiều giáo phụ như Epiphane, Gregoire de Nysse, Gregoire de Nazianze chống lại ông[3].

Thời gian này cũng nổi lên chủ trương "nghiêm trị" của giám nục Lucifer thành Cagliari: không tha thứ những người đã xúc phạm đến Chúa, những người đã sa ngã tại Rimini phải rửa tội lại. Nhưng Athanasius, tại công đồng Alexandria (362), tuyên bố: "Chỉ đòi họ thành thật bỏ lạc thuyết" mà không phải rửa tội lại.